Sinh trắc học vân tay có tên tiếng anh là Dermatoglyphics. Là phương pháp khoa học khám tiềm năng của mỗi cá nhân con người dựa trên nền tảng những ngành khoa học về gen, phôi thai học, sinh trắc học vân tay, khoa học thần kinh và tâm lý học trẻ em.
Trên cơ sở phân tích mật độ dày đặc, độ dài – ngắn, các khúc quanh, hình dạng của vân tay… để đo các chỉ số TFRC và các năng lực tiềm năng tiềm ẩn của não bộ con người. Từ các chỉ số đánh giá khả năng hoạt động của trí não cũng như điểm mạnh, điểm yếu, tính cách, tố chất của một cá nhân con người.
Tại sao là dấu vân tay?
Dấu vân tay của mỗi cá nhân là độc nhất. Xác suất hai cá nhân – thậm chí ngay cả anh em (hoặc chị em) sinh đôi cùng trứng – có cùng một bộ dấu vân tay là 1 trên 64 tỉ. Mặc dù hai anh em (chị em) song sinh có cùng hệ thống gen di truyền và chia sẻ chung môi trường phát triển trong bụng mẹ nhưng do họ có vị trí khác nhau trong dạ con nên môi trường vi mô của họ khác nhau và do đó có dấu vân tay khác nhau.
Dưới tác động của hệ thống gen di truyền mà thai nhi được thừa hưởng và tác động của môi trường thông qua hệ thống mạch máu và hệ thống thần kinh nằm giữa hạ bì và biểu bì. Thì cho dù có chung một hệ thống gen di truyền nhưng vân tay ở mười đầu ngón tay của mỗi cá nhân khác nhau.
Vân tay có quan hệ với não bộ như thế nào?
Cấu tạo của não bộ là sự liên kết giữa các nơ trôn thần kinh. Số lượng của các nơ trôn thần kinh trên não là bẩm sinh và nó được hình thành trong giai đoạn từ tuần 13 cho đến tuần thứ 19 của thai kì.
Năm 1926 Tiến sĩ Harold Cummins được xem là cha đẻ của ngành nghiên cứu khoa học dấu vân tay. Ông nghiên cứu và chỉ ra rằng dấu vân tay được khởi tạo ở thai nhi vào giai đọan từ 13 đến 19 tuần tuổi và được hình thành đồng thời với sự hoàn thiện các cấu trúc của não bộ.
Trước đó, một bác sĩ người Mỹ đã phát hiện ra một trường hợp kỳ lạ ở một trẻ mới sinh, đứa bé này không hề có bộ não. Người ta cũng đã phát hiện ra một điều dấu vân tay có liên hệ mật thiết với bộ não, bởi vì cả hai cùng không tìm thấy trong thời điểm này.
Các trường hợp tương tự như vậy xuất hiện với tần số ngày càng nhiều khiến các chuyên gia không thể phủ nhận một điều rằng: Não người và dấu vân tay đi liền với nhau. Ngành khoa học thần kinh đã nhấn mạnh rằng dấu vân tay và bộ não cùng phát triển đồng bộ với nhau. Thí dụ, ta có thể biết một đứa trẻ mắc hội chứng Down thông qua dấu vân tay rất khác biệt so với những đứa trẻ bình thường.
Giáo sư khoa thần kinh học người Canada Penfield đã công bố một biểu đồ thể hiện mối quan hệ giữa các vùng não và chức năng của cơ thể. Trong đó, mối quan hệ giữa dấu vân tay và não cũng đã được chỉ ra.
Chuyên gia y khoa Nhật Bản cũng đã chứng minh được rằng các ngón tay liên quan chặt chẽ đến bán cầu não. Phát minh này đã được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực,tạo ra một bước tiến vượt trội trong y khoa.
Vì thế, để tìm hiểu tại sao một người lại hành động như thế này còn người kia hành động theo cách khác, một người có năng khiếu về lĩnh vực này nhưng người khác lại không, thì chỉ có một con đường duy nhất là nghiên cứu họ thông qua dấu ấn rất riêng được thể hiện bằng các đường vân trên ngón tay