Sau cùng, vẫn chỉ có sự bao dung, tình yêu thương vô điều kiện của cha mẹ dành cho con cái, của cha mẹ dành cho nhau, là cái có thể cứu vãn được những bất ổn tâm lý của đứa trẻ.
Trên thực tế, sau khi bước vào tuổi dậy thì, sự xuất hiện của tâm lý nổi loạn ở những đứa trẻ là bình thường. Chúng thích suy nghĩ độc lập về các vấn đề, ý thức tự chủ dần dần mạnh mẽ; bắt đầu phê phán, không chấp nhận nhiều ý kiến của người lớn. Những đứa con ở độ tuổi dậy thì luôn mặc định là có xu hướng làm ngược lại những gì mà cha mẹ mong muốn.
Ở độ tuổi ẩm ương ấy, con trẻ có những sự thay đổi lớn cả về thể chất lẫn tinh thần. Trẻ vị thành niên không cần cha mẹ ở bên giám sát, kiểm soát mà cần người tư vấn, định hướng cho mình. Nếu phụ huynh đi “chệch” sự giáo dục này, có thể khiến cha mẹ – con cái lâm vào thế đối đầu, khó hàn gắn.
Là bà mẹ 3 con, trong đó có hai con lớn năm nay 13 và 15 tuổi, chị Lê Phương Lan (sinh năm 1980, ở Hà Nội) cũng từng trải qua những giai đoạn đầy khó khăn khi tìm cách hiểu và kết nối với các con. Từng ngày từng ngày các con biến chuyển, đến nỗi như trở thành một phiên bản khác của chính mình. Giai đoạn này con lại rất khó uốn nắn, bảo ban.
Chị Lê Phương Lan.
Chị Lan chia sẻ: “Các con có biến đổi mạnh mẽ về cơ thể, dẫn đến có những bức bối trong người, đôi khi hành động mất kiểm soát là do kết quả của việc khó chịu trong người; bắt đầu có xu hướng thể hiện cái tôi nhiều hơn hẳn so với giai đoạn tiểu học và đầu cấp 2, vì não bộ khá hoàn thiện, tư duy và vốn sống đủ để tranh biện với người lớn, bảo vệ quan điểm, cách nghĩ của bản thân”.
Bên cạnh đó, khối lượng kiến thức của lớp 7-8 là khá nặng, hơn hẳn các lớp học trước, khiến các con có áp lực học hành, điểm số. Các lớp học thêm tăng lên đột ngột để chuẩn bị kiến thức cho kỳ thi trọng đại vào lớp 10, dẫn đến các con có sự mất cân bằng nhất định giữa giờ học, giờ giải trí và các mối quan hệ gia đình, bạn bè.
Sự mất cân bằng này có thể là nguyên nhân dẫn đến stress, thái độ phản đối, bất hợp tác trong học tập trước những thời gian biểu dày đặc do bố mẹ lập cho, hoặc sự buông xuôi, phó mặc cho những bài vở ngổn ngang muốn ra sao thì ra.
Một trong những nguyên nhân khiến bố mẹ, con cái mâu thuẫn nữa, theo chị Lan là ở tuổi con cái sắp thành thanh niên, phụ huynh bắt đầu nâng kỳ vọng ở con, không những mong con học tốt ở trường, mà còn mong con tham gia vào việc nhà nhiều hơn, bắt đầu phân công nhiều việc nhà hơn hẳn: Nấu cơm, rửa bát, phơi gấp quần áo, dạy em học, đi chợ cho mẹ, giúp ba mẹ nhiều việc khác…
“Có những bạn thích nghi được, nhưng có nhiều bạn (hoặc đa số, đặc biệt những bạn con nhà khá giả có giúp việc từ bé, hoặc ở thành phố nên sướng từ bé) không thích nghi được ngay, dẫn đến bất mãn, phản kháng. Thêm vào đó, thời buổi công nghệ, các con bị tác động bởi thế giới vạn vật internet: nào game, phim ảnh, hội nhóm mạng xã hội. Một khi các con sa đà vào thế giới này, thì khả năng rút chân ra được là cực kỳ khó”, bà mẹ hai con chia sẻ.
Làm sao để tuổi dậy thì của con đỡ “nổi loạn” hơn?
Từ những quan sát của bản thân trong quá trình nuôi 2 con, và rất nhiều trường hợp xung quanh trong giai đoạn 2 năm vừa qua, chị Lan đã tự đúc rút được vài kinh nghiệm hữu ích để việc nuôi dạy bé thứ 3 sau này đỡ vất vả hơn.
Bà mẹ này nhấn mạnh các nội dung sau:
1. Kiểm soát thật chặt TV, máy tính, iPad, iPhone… chỉ được dùng những khi thật cần thiết, khi dùng phải có sự đồng ý của mẹ. Điều này phải làm nghiêm túc từ khi còn nhỏ, chứ không phải đến lớp 7-8 mới làm. Nếu để đến lúc này mới làm thì sự phản kháng cực kỳ mãnh liệt, đôi khi biến tướng thành nhiều hình thức nguy hại.
2. Ngay từ khi con học lớp 3-4 đã phải huấn luyện làm việc nhà, phân rõ trách nhiệm, coi như nhiệm vụ bắt buộc chứ không phải làm thì cho tiền trả lương. Ăn cơm xong là bố mẹ ngồi im cho con đi rửa bát. Quần áo đầy là phải con cho vào máy giặt, con đi phơi. Hướng dẫn con phân loại quần áo cất đi cho mọi người. Khi nấu ăn gọi con ra làm cùng. Dần dà con lớn đến lớp 7-8 là con nấu được nguyên cả bữa cơm.
3. Cân nhắc lựa chọn những môn học thêm, không học tràn lan. Phải chấp nhận chỉ học những môn trọng điểm. Ngoại trừ một số bạn xuất sắc, còn lại không thể mong chờ con giỏi tất cả các môn được. Ngoài ra, không đặt quá nặng vấn đề điểm số.
4. Gần gũi nói chuyện với các con thật nhiều, càng nhiều càng tốt, gợi chuyện ở lớp ở trường để các con tâm sự bạn nọ bạn kia, qua đó nắm tình hình môi trường lớp học, đồng thời tư vấn ứng xử, chọn bạn bè.
5. Không quân phiệt đòn roi, thiên về giáo huấn, lựa lúc vui vẻ để phân tích phải trái.
6. Lập mục tiêu ngắn hạn, dài hạn và trao thưởng. Nói là phải thực hiện, nếu không các con mất lòng tin và bỏ dở mọi mục tiêu.
7. Nếu con đồng ý đi chơi với bố mẹ thì quá tuyệt vời, phải tận dụng mọi cơ hội để cho con ra ngoài cùng, đi chơi, đi thăm thú du lịch, thăm người nhà, cafe sách, đi dạo phố, đi ăn vặt…qua đó lồng ghép đủ mọi loại bài học.
8. Định hướng xem những bộ phim có chất lượng, nội dung tốt, mượn/mua sách văn học cho con đọc từ bé (tránh truyện tranh), chăm đi nhà sách, thư viện. Việc này phải làm từ khi còn rất nhỏ.
9. Khi con xem ti vi, không cho vào xem các nội dung rác, đoạn clip ngắn linh tinh, review phim, review game. Khuyến khích xem các clip dạy kỹ năng (nấu ăn, đan lát, làm handmade, thí nghiệm khoa học, nhảy, hát, đàn…).
10. Lựa chọn lớp ngoại khoá phù hợp với con và kiên trì theo đuổi, không bỏ cuộc giữa chừng (piano, võ, vẽ, guitar,…).
Ảnh minh họa.
Chị Lan cho rằng, nghề làm cha mẹ chưa lúc nào khó như lúc này. Chị chỉ biết tự động viên bản thân cố gắng.
“Mình chưa bao giờ nghĩ mình là người biết dạy con. Lúc nào cũng như một kẻ vừa đi vừa dò đường. Mọi việc đều làm theo cảm tính, cũng chưa biết đúng sai. Chỉ hy vọng trong vô vàn lần sai sẽ có vài lần đúng, và sẽ được nhìn con lớn lên là con người có trách nhiệm, biết yêu thương và chia sẻ. Nhưng mình biết rằng, đó là một hành trình dài, quá nhiều thử thách, mong lắm có đôi lúc được bước trên hoa hồng, kết bằng yêu thương và hiếu thảo.
Cha mẹ có con lớp 8-9, hãy kiên nhẫn chút thôi, mình tin rằng chúng đều sẽ ổn, nếu như chúng ta cứ quan tâm và tôn trọng con đúng cách”, bà mẹ này chia sẻ.
TÌM HIỂU CÔNG CỤ ĐỊNH HƯỚNG GIÁO DỤC VÀ NGHỀ NGHIỆP